Trầm tích hồ
Trầm tích hồ

Trầm tích hồ

Trầm tích hồ là hệ tầng đá trầm tích hình thành dưới đáy hồ cổ đại.[1] Một đặc điểm chung của trầm tích hồ là một dòng sông hoặc dòng suối đã mang trầm tích vào lưu vực. Các lắng đọng trầm tích hồ hình thành trong mọi loại hồ, bao gồm các hồ địa hào tách giãn, hồ móng ngựa, hồ sông băng, hồ miệng núi lửahồ hố va chạm. Môi trường hồ cũng giống như biển, là những vùng nước lớn. Chúng chia sẻ các lắng đọng trầm tích tương tự, chủ yếu bao gồm các kích thước hạt năng lượng thấp, với các hạt rất mịn như cát mịn, bột và sét.[2] Trầm tích hồ thường được sắp xếp rất tốt,[2] với các lớp phân phiến rõ nét, gồm bột, sét và đôi khi cả các cacbonat, sulfat, chloride, borat và nitrat.[3] Liên quan đến thời gian địa chất, các hồ là tạm thời và một khi chúng không còn nhận được nước nữa thì chúng sẽ khô cạn và để lại một hệ tầng.Thành phần của trầm tích hồ phụ thuộc vào khí hậu, địa hình, cấu trúc địa chất của khu vực, kích thước và hình dạng của chính hồ đó cũng như mức độ dòng chảy của nó. Trong đó bao gồm cuội, cát, á cát, aleurit (bột), á sét, sét, bùn, diatomit (đất tảo cát), than bùn.[4] Theo quy luật, các hạt lớn hơn lắng xuống gần bờ, chúng bao gồm cát, sỏi và cuội, còn gần trung tâm hồ hơn là các hạt nhỏ hơn như bùn, aleurit, á sét, sét. Trong các hồ nhỏ, bùn có thể tích tụ ngay gần bờ do tác động của sóng nước ít hơn.Phần lớn lượng giáng thủy tích tụ trong điều kiện đồi núi bị chia cắt và khí hậu ẩm ướt, tạo ra dòng chảy bề mặt dữ dội. Ở một số hồ, người ta quan sát thấy sự phân lớp ngang thành dải do sự luân phiên của các mùa. Vào mùa xuân và mùa thu, các trầm tích lớn (á cát, cát và mảnh vụn) tích tụ trong hồ, còn vào mùa đông và mùa hè là trầm tích gồm các hạt nhỏ hơn (á sét, sét, bột và bùn).